Tin tức

Điện hạt nhân ở Việt Nam

Điện hạt nhân ở Việt Nam - triển vọng phát triển và những thách thức

Nhu cầu tiêu thụ điện trong tương lai của Việt Nam được dự báo sẽ tăng gấp nhiều lần so với hiện nay, việc đảm bảo cung cấp điện cho nền kinh tế là một trong những thách thức lớn cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Để đảm bảo nguồn cung cấp điện cho nền kinh tế phát triển vững chắc và đa dạng hoá nguồn cấp, Việt Nam có thể phát triển các nguồn cung cấp điện từ than, dầu, khí, thuỷ điện, hạt nhân, năng lượng mới. Trong các nguồn nêu trên, điện hạt nhân là một trong những phương án được chú ý, gây tranh luận nhiều nhất với các ý kiến trái ngược nhau.

Quan điểm của chúng tôi là nếu được đánh giá phân tích đúng vai trò của mình, điện hạt nhân sẽ có một triển vọng phát triển rất tốt ở Việt Nam. Tuy nhiên, cũng sẽ có những thách thức to lớn cần phải lường biết trước để có thể đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển công nghiệp điện hạt nhân ở Việt Nam. Vấn đề trao đổi ở đây là một số ý kiến và suy nghĩ về hai quan điểm trên.

1. Triển vọng phát triển

Thời điểm thuận lợi

Công nghiệp điện hạt nhân trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 50 năm, trải qua các thời kỳ thăng trầm khác nhau. Trong những năm cuối thập kỷ 70 điện hạt nhân trên thế giới đã có sự phát triển rực rõ nhất, tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên cũng vấp phải những thử thách to lớn, sau sự cố Three Mile Island ở Mỹ năm 1979 và đặc biệt thảm hoạ Chernobyl (Liên Xô cũ ) năm 1986 đã làm chậm lại tốc độ phát triển điện hạt nhân. Niềm tin của công chúng giảm sút và nhiều nước đã xem xét lại chương trình phát triển điện hạt nhân của mình. Các chính sách quản lý được xiết chặt lại làm tăng giá thành, chính phủ phải bỏ tiền của ra để cứu vãn nền công nghiệp điện hạt nhân khỏi sự phá sản. Thậm chí điện hạt nhân trở thành đầu đề đàm tiếu như là điển hình của sự dối trá, che dấu, hoang phí tiền của dân.

Tuy nhiên, triển vọng phát triển đã quay trở lại với công nghiệp điện hạt nhân từ đầu thập kỷ 21. Cho tới thời điểm hiện nay trên thế giới có khoảng 440 lò đang hoạt động, và có 31 lò đang được xây dựng (2007) cùng nhiều lò đang có kế hoạch xây dựng. Thực tế cho thấy xu hướng quay trở lại điện hạt nhân ngày càng rõ nét tại nhiều nước trên thế giới trong những năm gần đây. Điều kiện chính trị, kỹ thuật công nghệ, kinh tế và môi trường trên thế giới đã và đang thay đổi theo xu hướng thuận lợi, điều đó cũng giúp cho triển vọng phát triển điện nguyên tử ở Việt Nam trở nên sáng sủa hơn.

Nhu cầu điện lớn với giá thành thấp

Trong vòng 2 thập kỷ tới, Việt Nam dự kiến phải phát triển gấp 7-8 lần khả năng cung cấp điện hiện có để đảm bảo nhu cầu điện cho nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là phải xây dựng mới trên 60 000 MW với nhu cầu vốn đầu tư hàng trăm tỷ đô la Mỹ. Với một nhu cầu đầu tư lớn như vậy thì việc tìm kiếm một nguồn cung cấp đảm bảo nền tảng cho hệ thống điện với giá thành rẻ và ổn định là điều quan trọng sống còn cho nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh ở Việt Nam.

Điện hạt nhân có giá thành rẻ hơn so với các nhà máy phát điện sử dụng nhiên liệu than, dầu hoặc khí. Nhiều nghiên cứu về giá thành sản xuất điện của Pháp, Phần lan, Mỹ, Nhật Bản đều đi đến kết luận về giá thành điện hạt nhân là thấp hơn so với giá thành sản xuất điện bằng khí, than hoặc dầu từ 10-20%, phụ thuộc vào các điều kiện xây dựng và vận hành, kể cả khi tính đến chi phí cho tháo dỡ, cho bảo hiểm và dự phòng cho sử lý chất thải. Đặc biệt trong điều kiện giá nhiên liệu than, dầu va khí ngày càng tăng nhanh thì giá thành sản xuất điện hạt nhân lại càng trở nên cạnh tranh cao hơn và sẽ là một sự lựa chọn kinh tế.

Nguồn cung cấp nhiên liệu ổn định và tin cậy

Nhà máy điện hạt nhân đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu rất lớn (chiếm khoảng ba phần tư giá thành) nhưng chi phí vận hành lại rẻ. Một khi xây dựng xong và đưa vào vận hành, nguyên liệu chủ yếu để nhà máy điện hạt nhân hoạt động là các bó thanh nhiên liệu (thông thường là uranium) kể từ lúc nạp liệu sẽ trải qua quãng thời gian vài năm trong lò phản ứng, với giá thành tương đối ổn định. Mặc dù giá nhiên liệu uranium đã tăng nhanh trong năm 2007, điều đó ít có ảnh hưởng tới giá thành sản xuất của các nhà máy điện hạt nhân đang hoạt động. Hơn nữa, nguồn nhiên liệu uranium theo các số liệu đã khảo sát đủ để đảm bảo cung ứng cho ngành công nghiệp hạt nhân trong thời gian dài, đó là chưa kể tới việc sử nhiên liệu hỗn hợp MOX (Oxít Uranium-Plutonium) và sự phát triển công nghệ lò nơtron nhanh (hay còn gọi là lò tái sinh) sẽ đem lại cơ hội sử dụng nhiên liệu là Thorium lên tới hàng nghìn năm, điều đó đảm bảo nguồn cung cấp nhiên liệu ổn định và chắc chắn trong tương lai. Còn giá nguyên liệu than, dầu và khí thì khó có thể dự đoán một cách chắc chắn khi mà kế hoạch phát triển công nghiệp điện và vận hành hệ thống điện cần phải tính đến 30-40 năm trong tương lai.

Nguồn khai thác nhiên liệu uranium cũng được phân bố đều trên thế giới, tại các nước với hệ thống kinh tế khác nhau như Úc, Canađa, Nam phi, Kazakhstan, Braxin, Mỹ, Nga…cũng là một yếu tố góp phần ổn định cho việc cung cấp nguyên liệu trong tương lai, trong khi mà nguồn cung cấp dầu và khí lại chỉ tập trung vào một số nước và khả năng cạnh tranh nguồn cung cấp than, dầu và khí của Việt Nam bị hạn chế so với các nước có tiềm lực kinh tế lớn khác.

Biến đổi khí hậu môi trường và giảm ô nhiễm

Vấn đề biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang được thế giới quan tâm cũng có vai trò làm tăng ưu thế cạnh tranh của điện hạt nhân. Nhà máy điện hạt nhân, thường được sử dụng để chạy ổn định ở nền phụ tải, có một lợi thế lớn là không phát thải khí CO2, nguyên nhân chính trong vấn đề thay đổi khí hậu toàn cầu. Với một khả năng đánh thuế môi trường và hạn chế khí phát thải bắt buộc sẽ áp dụng cho các nguồn ô nhiễm môi trường như nhà máy phát điện chạy than, dầu, khí, trong tương lai thì nhà máy điện hạt nhân lại càng được khẳng định được lợi thế của mình như một nghành công nghiệp xanh.

2. Thách thức to lớn 

Nguồn đầu tư lớn

Mặc dù đã được cải tiến bằng cách đơn giản và tiêu chuẩn hoá các thiết kế để giảm chi phí xây dựng và vận hành và sửa chữa, xây dựng nhà máy điện hạt nhân vẫn đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn và thời gian xây dựng kéo dài với các công nghệ tiên tiến và phức tạp mà Việt Nam chưa nắm bắt được chắc chắn. Với một nguồn vốn đầu tư lớn tới hơn 2 tỷ dollars cho một tổ máy phát điện 1000 MW, việc quản lý chuẩn bị đầu tư và xây dựng tốt, nắm chắc quy trình và kỹ thuật xây dựng, đào tạo nhân lực cho quản lý vận hành an toàn là những thách thức to lớn để có được một nguồn cung cấp điện an toàn, ổn định và rẻ cho sự phát triển kinh tế của đất nước trong tương lai.

Kinh nghiệm của các nước khác trong xây dựng và vận hành NMĐHN cho thấy với thiết kế kém chất lượng, thời gian xây dựng bị chậm trễ, sự lo lắng về vấn đề an toàn, giá thành của NM ĐHN sẽ có thể bị tăng cao lên rất nhiều so với dự kiến ban đầu. Sự hậu thuẫn và nhất quán về mặt chính trị và đường lối sẽ giảm tối đa được sự bất ổn, đảm bảo ổn định được giá thành trong quá trình chuẩn bị và xây dựng NM DDNT.

Lựa chọn công nghệ

Lựa chọn công nghệ phù hợp nhất cho Việt Nam, tính tới điều kiện đặc thù tự nhiên, kinh tế, xã hội, thể chế cũng sẽ là một thách thức lớn cho những người có trách nhiệm đặt nền móng cho ngành công nghiệp nguyên tử, bởi vì chi phí phê duyệt, xây dựng, vận hành và sửa chữa sẽ được giảm đáng kể cho các nhà máy tiếp theo.

Xu hướng gần đây cho thấy lò nước nhẹ công suất lớn ( bao gồm cả lò nước sôi và lò nước áp lực) đang chiếm ưu thế trong các dự án đang được xây dựng, cũng như các dự án có kế hoạch xây dựng. Trên thế giới hiện hình thành 3 liên minh cung cấp thiết bị lớn là Westinghouse-Toshiba (Mỹ), Areva (Pháp)-Mitshubishi (Nhật), General Electric-Hitachi, ngoài ra Atomstroi của Nga cũng là nhà thầu có nhiều dự án đang xây dựng ở nước ngoài. Với sự quay trở lại của điện hạt nhân tạo nên nhu cầu lớn về cung cấp thiết bị và nhân lực, Việt Nam cần phải tìm một hướng đi đúng trong việc lựa chọn công nghệ để có thể tranh thủ được sự hậu thuẫn tối đa về công nghệ và nhân lực. Điều này lại đặc biệt quan trọng nếu tính đến triển vọng xây dựng hàng loạt các nhà máy ĐHN tiếp theo để giảm chi phí.

An toàn

Xây dựng là một trong số các thách thức, tuy nhiên vận hành và bảo dưỡng NM ĐHN an toàn trong một thời gian dài từ 40 – 60 năm mới là nỗi quan tâm lo lắng nhất của các nhà hoạch định chính sách và các nhà đầu tư. Một sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn đến những hậu quả và thiệt hại to lớn. Không giống như các nhà máy điện khác, vấn đề an toàn ở đây bao gồm cả vấn đề bảo vệ nhà máy chống lại mối đe doạ phá hoại từ bên ngoài (đe doạ gây thảm hoạ phóng xạ), và bảo vệ nguyên liệu hạt nhân và đảm bảo có được nguồn cung cấp nhiên liệu tin cậy và ổn định. Sự hậu thuẫn và ủng hộ của các cường quốc, cũng như các nước trong khu vực là một yếu tố quan trọng đảm bảo an ninh lâu dài và ổn định.

Chất thải phóng xạ

Chất thải phóng xạ hiện là một vấn đề chưa có được hướng giải quyết triệt để. Sau 3 năm sử dụng, các thanh nhiên liệu đã cháy được coi là chất thải hoạt độ cao. Thông thường hiện tại tại nhiều nước các chất bó thanh nhiên liệu đã cháy này được lưu giữ tại nhà máy (thời hạn có thể đến 50 năm) chờ đến khi được vận chuyển đến địa điểm cố định. Tuy nhiên, chưa nước nào có được một địa điểm ổn định lưu giữ chất phóng xạ cao này cho thời gian dài (1000 – 100000 năm), mà mới chỉ ở mức độ mô phỏng trên mô hình (Pháp), hoặc chuẩn bị xây dựng mặc dù gặp rất nhiều khó khăn và chống đối (Núi Yucca, Mỹ). Các nghiên cứu về xử lý và quản lý chất thải hoạt độ cao đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm đầu tư nghiên cứu, hy vọng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thì sớm có giải pháp tối ưu trong tương lai gần đây.

Chấp thuận của công chúng

Sự đồng thuận của công chúng là một yếu tố quyết định sự thành công cho sự phát triển công nghiệp ĐHN. Kinh nghiệm của các nước (Mỹ, Philippines) cho thấy sự phản đối của công chúng có thể làm kéo dài thời gian xây dựng và tăng chi phí xây dựng, thậm chí dẫn tới phá sản chủ đầu tư hoặc không thể đưa vào vận hành được.

Qua các cuộc triển lãm và thăm dò dư luận tại HN, TPHCM, Ninh Thuận, Phú Yên gần đây cho thấy tỷ lệ ủng hộ của dân chúng rất cao (90% thấy sự cần thiết của ĐHN, 47,7% coi ĐHN là có ích và an toàn, chỉ có 4,6% coi ĐHN la nguy hiểm). Tuy nhiên sự ủng hộ này đang có nguy cơ bị dò rỉ và giảm sút do thiếu sự tuyên chuyền và thông tin phổ biến. Nghành công nghiệp điện hạt nhân cần phải chứng minh cho công chúng thấy được ĐHN là rẻ, ít ô nhiễm, an toàn, tạo thu nhập và công ăn việc làm cho địa phương thì chắc chắn sẽ được sự đồng thuận cao.

3. Công việc đã và đang làm tại Việt Nam 

Việc chuẩn bị cho phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam đã được dự kiến từ những năm của thập kỷ 90. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế chính trị chưa thuận lợi nên mới chỉ tạm dừng ở nghiên cứu tổng quan. Công việc chuẩn bị đã được triển khai mạnh mẽ hơn kể từ sau 2002, khi Thủ Tướng chính phủ có ý kiến chỉ đạo lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam do Viện năng lượng (Tập đoàn điện lực Việt nam) chủ trì phối hợp cùng một số cơ quan liên quan khác đã hoàn thành và trình Thủ tướng vào tháng 8/2005.

Cuối tháng 4/2008 Viện năng lượng đã được Bộ Công Thương và Tập đoàn điện lực Việt Nam tiếp tục giao nhiệm vụ lập Báo cáo đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại địa điểm Phước Dinh và Vĩnh Hải- Tỉnh Ninh Thuận, mỗi địa điểm dự kiến xây dựng 02 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 1000MW với tiến độ dự kiến tổ máy đầu tiên sẽ đi vào vận hành năm 2020.

Viện Năng lượng cũng đồng thời đang tiến hành lập 02 báo cáo quy hoạch địa điểm chi tiết tại Phước Dinh và Vĩnh Hải để có thể sớm trình Bộ Công Thương phê duyệt địa điểm, nhằm chuẩn bị các điều kiện thuận lợi và cần thiết để xây dựng nhà máy. Ngoài ra để có thể đáp ứng việc phát triển nhiều tổ máy điện hạt nhân trong tương lai, thì việc tiến hành tìm kiếm thêm các địa điểm khác là hết sức cần thiết, công việc qui hoạch các địa điểm tiềm năng này đang được Viện năng lượng nghiên cứu và sẽ sớm có kế hoạch triển khai.

4. Thay lời kết

Việc xây dựng và đưa vào vận hành NM ĐHN, cũng như phát triển nền công nghiệp điện hạt nhân sau đó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có vấn đề quản lý chất thải, ổn định giá thành, và có lẽ quan trọng hơn cả là thuyết phục được mọi người rằng ĐHN sẽ được vận hành rất an toàn. Mặc dù có những thách thức to lớn như vậy, tâm trạng chung ở Việt Nam là lạc quan tin tưởng vào tương lai của ngành công nghiệp mới mẻ này. Sự khởi đầu là rất quan trọng bởi vì thành công sẽ giúp chúng ta tự tin hơn, còn với bất kỳ trục trặc hoặc gặp sự cố nào đó sẽ làm khó khăn hơn rất nhiều khả năng phát triển trong tương lai của ngành công nghiệp ĐHN.